Đã một năm trôi qua kể từ ngày gia đình Thanh dọn về ở khu "xóm vắng" vùng Đakao này. Gọi là "xóm vắng" vì ở cái xóm tân lập này chỉ đếm được hơn mười nóc gia và có khoảng hai mươi lăm nhân khẩu.
Vào những năm cuối thập niên bốn mươi và đầu thập niên năm mươi của thế kỷ hai mươi thì dân số thành phố Saigon-Gia Định chỉ vỏn vẹn khoảng trên dưới hai trăm năm chục ngàn người.
Gia đình Thanh chạy loạn chiến tranh giữa Việt Minh và quân đội Pháp từ miền Trung vào. Thật may mắn là ba của Thanh có người bạn đang là công chức ở Sở Bưu điện thành phố và, cũng đang ngụ không lâu ở cái "xóm vắng" này nên gia đình Thanh kiếm được một miếng đất nhỏ ở đây và dựng tạm một căn nhà bằng vật liệu nhẹ để phòng khi mưa nắng.
Thanh là con trai một nên ba má Thanh đã dành tất cả những gì có được đều cho một mình Thanh. Thanh đã hai mươi tuổi rồi và tuy rất thông minh nhưng việc học thì thường bị gián đoạn luôn vì chiến cuộc.
Nhìn cảnh gia đình luôn thiếu trước hụt sau, Thanh cũng muốn tìm một việc làm để phụ giúp cho kinh tế gia đình khá hơn và để mẹ Thanh không phải vất vả mỗi sáng với gánh xôi nặng trĩu trên vai đi dạo khắp phố phường.
Ba Thanh thì không muốn con trai mình phải lận đận và không có tương lai nên ông thường khuyên con phải cố gắng học hành cho thành đạt. Ông thường nói: "Học đến nơi đến chốn trước là ấm cho bản thân, sau là vợ con con được nhờ chứ lúc đó ba mẹ còn đâu để mà nhờ". Tuy nghe lời dạy của ba mẹ, nhưng Thanh cũng nhờ vài người bạn cùng trường tìm cho một công việc dạy kèm trẻ tại nhà.
Một ngày kia,Thanh được bạn bè giới thiệu một công việc như ý muốn là dạy kèm cho bốn em nhỏ. Ngày đầu tiên đi nói chuyện để nhận việc, Thanh không dấu nổi vẻ thất vọng khi được cho biết công việc dạy học được bắt đầu vào lúc 19h và chấm dứt lúc 22h30. Thất vọng là vì nơi mà Thanh mỗi tối phải đến ở tận ngã tư Phú Nhuận, cách nhà Thanh khoảng năm cây số hơn. Vùng đó hơi xa nhà mà lại quá vắng vẻ vì còn nhiều đồng ruộng.
Thời gian mà Thanh phải đi và về vào thời điểm đó thì không làm sao có phương tiện để di chuyển được. Thấy Thanh lo lắng, ba Thanh hỏi chuyện và khi biết nguyện vọng của con thì ông nói:
- Mỗi tối ba sẽ đưa con đi và đón con về bằng xe mobilette của ba. Ba cũng cần ra ngoài một chút vào buổi tối cho khỏe người. Khi nào gia đình mình khá một chút thì sẽ sắm cho con chiếc xe đạp.
Nghe ông nói vậy Thanh cũng ậm ừ cho qua chuyện vì Thanh biết là cả ngày ông làm trong Sở Bưu điện, tối về ông cũng muốn có những giây phút bên mẹ Thanh cho bà vui vì mẹ Thanh là một tiểu thư đài các khi quen ba Thanh. Cũng vì chiến tranh nên gia đình phải tạm thời gặp khó khăn.
Tải ảnh
Ngày đầu tiên nhận việc, Thanh rất vui vì bốn em mà Thanh dạy kèm đều rất ngoan. Bốn em này ở cùng một xóm và học cùng một trường công lập Võ Tánh trên đường Võ Di Nguỵ Các em rất yếu về môn toán và Việt văn. Một ngày nọ, ba của Thanh đến đón anh trễ. Thanh thả bộ ngang qua ngã tư Phú Nhuận thì Thanh để ý thấy có một xe thổ mộ, là loại xe ngựa chở khách rất thịnh hành vào thời điểm này và thường đậu ở ngã tư để đón khách.
Thấy Thanh, người xà ích vội ngồi thẳng dậy và mời:
- Cậu đi xe cậu ơi.
Thanh cám ơn người xà ích và nhân tiện cũng hỏi cho biết giá cả từ đây về nhà Thanh, và Thanh hứa sẽ đi vào một dịp khác.
Ba của Thanh đã đồng ý với đề nghị của Thanh là từ thứ hai đầu tuần tới, ông chỉ phải đưa Thanh bận đi mà thôi. Khi về thì Thanh sẽ về bằng xe thổ mộ. Thanh cho biết là tiền xe chỉ mất khoảng năm cắc (0,50 xu). Mỗi tháng Thanh dạy kèm từ thứ hai đến thứ sáu là năm ngày, như vậy mỗi tháng mất khoảng mười đồng tiền xẹ Tiền công kèm bốn em, mỗi em một tháng là mười lăm đồng, vị chi Thanh vẫn còn dư đến năm mươi đồng. Thấy con tính như vậy nên ba Thanh cũng tạm yên lòng. Sau một tháng dạy kèm cho bốn em. Lần đầu tiên trong đời, Thanh cầm trong tay số tiền lương mà Thanh kiếm được. Thanh đã yêu cầu mẹ từ nay không phải thức khuya dậy sớm với gánh xôi cực nhọc nữa. Thanh sẽ dựng cho mẹ một sạp báo ở đầu xóm "cho mẹ vui vì có công việc làm".
Kể từ tháng thứ hai, các em vì mến Thanh nên sau giờ học các em muốn Thanh ngồi lại để "kể đủ thứ chuyện gì mà thầy Thanh biết".
Từ đó, mỗi đêm Thanh ngồi nán lại với các em thêm một giờ.
Từ nơi dạy học, Thanh ra đến chỗ xe thổ mộ là mười một giờ bốn mươi phút đêm.
Người xà ích không lộ một vẻ gì nôn nóng và thái độ thì cũng vẫn bình thản như mọi hôm.
Đường sá vào những năm đó rất vắng vẻ. Hằng đêm, Thanh từ nơi dạy kèm đi ra đến xe thổ mộ, luôn luôn cũng chỉ có một mình Thanh chứ tuyệt nhiên không có một bóng người hay chiếc xe nào khác chạy trên đường. Nhà cửa ở khu ngã tư Phú Nhuận cũng rất ít oi và nhiều đồng ruộng. Nhà ở hai bên con đường Võ Di Nguy từ ngã tư Phú Nhuận lên đến Đakao thì im lìm then cài cửa đóng.
Cũng có đôi lúc Thanh rùng mình nghĩ vu vơ về những chuyện ma quái nhưng Thanh vội gạt đi những ý nghĩ đó. Thanh thường nhìn lén người xà ích, Thanh thấy ông ta thật bình thản nên cũng có phần yên tâm hơn và bớt suy nghĩ những điều không hay. Gọi người xà ích là ông chứ Thanh nghĩ tuổi của ông ta chỉ ngoài ba mươi.
Đêm nay cũng giống như mọi đêm. Thanh ngồi quay lưng lại với người xà ích để hai chân được thòng xuống cái bàn đạp dùng để cho khách bước lên xe. Nhìn cảnh vật hai bên đường đêm nay Thanh thấy sao nó tối tăm quá, mặc dầu nó cũng như mọi đêm qua.
Đèn không đủ soi sáng lắm ở hai bên đường... nhất là khoảng từ chợ Phú Nhuận lên đến cầu Kiệu. Thanh nghĩ quẩn là nếu chẳng may có một bọn cướp nào đó xông ra chận chiếc xe thổ mộ và bắt Thanh dẫn đi vào con hẻm nào đó thì cũng chẳng có ai dám đuổi theo. Cảnh sát cũng chưa chắc đã dám đuổi theo nói chi đến người dân thường.
Đang miên man suy nghĩ thì đột nhiên chiếc xe thổ mộ từ từ chạy chậm lại vì có người đứng đón xe.
Thanh quay đầu lại nhìn thì cũng vừa lúc người xà ích lên tiếng:
- Cô đi xe, cô ơi.
- Qua khỏi cầu Kiệu là bao nhiêu tiền hả chú?
- Dạ,mười xu cô ạ.
Thanh ngồi tránh qua một bên để người khách bước lên. Khách là một cô gái. Cô gá